Giá gạo hôm nay 16/3/2025: Từ chối, giao dịch chậm
Về lâu dài, nhu cầu giao dịch giảm, các nhà giao dịch chủ yếu mua gạo, giá có xu hướng giảm nhẹ.
Trong Kien Giang, gạo chín cao, giao dịch diễn ra khá ổn định, giá không có biến động lớn.
Ở Hau Giang, chất lượng gạo được thu hoạch tốt, giá vẫn ổn định.
Trong khi đó, một Giang có nguồn gạo phong phú, nhưng giá gạo thơm giảm nhẹ do giao dịch chậm.
![]() |
Tác phẩm nghệ thuật |
Cập nhật giá gạo hôm nay:
Dính IR 4625 (mới): 8.100 – 8.200 vnd/kg (hằng số).
Gạo nếp 3 tháng tươi: VND 8.100/kg (không đổi).
Ir 50404 gạo: 5.500 – 5.600 vnd/kg (hằng số).
Radio 8 (tươi): 6.500 – 6.700 vnd/kg (hằng số).
OM 5451 gạo: 5.700 – 5,800 vnd/kg (giảm 100 vnd/kg).
Om 18 gạo (tươi): 6.400 – 6.650 vnd/kg (giảm 100 vnd/kg).
OM 380: 5.200 – 5.400 vnd/kg (không đổi).
Gạo Nhật Bản: 7.800 – 8.000 vnd/kg (không đổi).
Gạo gạo của cô ấy (khô): 20.000 vnd/kg (không đổi).
Gạo hoa Nang 9: 9.200 vnd/kg (không đổi).
Giá gạo hôm nay 16/3/2025: đồng thời giảm nhẹ
Trong Dong Thap, lượng gạo tăng nhẹ, giao dịch diễn ra chậm. Một số kho tiếp tục mua, nhưng chỉ trong chừng mực.
Trong Tien Giang, số lượng hàng hóa ít hơn, giá gạo đẹp vẫn ổn định, nhưng các nhà kho đã mua chậm hơn trước.
Trong một giang, gạo thô có dấu hiệu giảm thiểu do áp lực từ một nguồn cung cấp lớn.
Cập nhật giá gạo ngay hôm nay:
Gạo thô IR 504 Mùa hè -Autumn: 8.150 – 8.200 vnd/kg (hằng số).
Ir 504 đã hoàn thành gạo: 9.500 – 9.700 vnd/kg (hằng số).
Vật liệu gạo thô 5451: 8,500 – 8.600 vnd/kg (hằng số).
Gạo thô với OM 380: 7.750 – 7.850 VND/kg (giảm 150 VND/kg).
OM 380 đã hoàn thành gạo: 8.800 – 9.000 vnd/kg (hằng số).
Gạo thô là 18: 9.300 – 9.500 VND/kg (không đổi).
Gut: 18.000 – 22.000 vnd/kg (hằng số).
Gạo thông thường: 15.000 – 16.000 vnd/kg (hằng số).
Gạo được nhen nhóm: 28.000 vnd/kg (hằng số).
Hạt thơm gạo thơm: 20.000 – 22.000 vnd/kg (hằng số).
Gạo thơm Jasmine: 18.000 – 20.000 vnd/kg (hằng số).
Lai Huong Rice: 22.000 vnd/kg (hằng số).
Gạo trắng thông thường: 17.000 vnd/kg (hằng số).
Nang HOA Rice: 22.000 vnd/kg (hằng số).
Squirrel gạo: 18.000 vnd/kg (hằng số).
Gạo SOC Thái: 21.000 vnd/kg (hằng số).
Gạo thơm của Đài Loan: 21.000 vnd/kg (hằng số).
Gạo Nhật Bản: 22.000 vnd/kg (hằng số).
Tờ OM 5451: 7.100 – 7.300 vnd/kg (hằng số).
Lâu khô: 5.550 – 5.700 vnd/kg (không đổi).
Tấm 3-4: 6.600 – 6.700 vnd/kg (không đổi).
Thị trường xuất khẩu gạo: Giá gạo Việt Nam ổn định
Trong thị trường xuất khẩu, giá gạo Việt Nam không có nhiều biến động. Hiện tại, giá tiêu chuẩn của gạo tiêu chuẩn 100% vẫn ở mức 307 USD/tấn, trong khi:
Gạo 5% bị hỏng: 392 USD/tấn (ổn định).
25% gạo bị hỏng: 365 USD/tấn (ổn định).
Ổn định thị trường gạo trong nước
Hiện tại, khu vực đồng bằng sông Mê Kông đang trong thời kỳ thu hoạch vụ lúa mùa đông 2024-2025. Tuy nhiên, giá gạo có xu hướng giảm do tác động của nguồn cung và biến động lớn trên thị trường quốc tế.
Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, tổng cung cấp gạo toàn cầu có xu hướng tăng so với năm 2024, có thể gây áp lực lên giá gạo trong những tháng tới. Tuy nhiên, dự kiến từ cuối quý thứ hai hoặc cuối năm 2025, nhu cầu nhập khẩu từ các quốc gia sẽ giúp thị trường gạo phục hồi.
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường, ông Do Du Duy, cho biết:
“Vào năm 2024, đó là một đột biến trong việc xuất khẩu cả số lượng và giá trị. Thời gian hiện tại là thời điểm điều chỉnh thị trường, vì vậy nó sẽ sớm ổn định. Chúng tôi đang khuyên các giải pháp của chính phủ để phát triển thị trường lúa bền vững, tránh các biến động quá mạnh như những năm trước.”
Giải pháp cho thị trường gạo bền vững
Để đảm bảo sự phát triển ổn định của thị trường, Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ chỉ đạo các địa phương thực hiện các biện pháp sau:
Tiếp tục ổn định sản xuất và khu vực trồng lúa theo kế hoạch.
Tăng cường giám sát theo mùa, hỗ trợ nông dân thu hoạch vào đúng thời điểm.
Giám sát chặt chẽ tình trạng hạn hán nước muối để hạn chế tác động đến sản xuất lúa.
Thúc đẩy dự trữ mua hàng để ổn định giá trên thị trường.
Do đó, giá gạo hôm nay 16/3/2025 giảm nhẹ so với ngày hôm qua, chủ yếu là do nguồn cung lớn và nhu cầu giao dịch chậm. Tuy nhiên, triển vọng thị trường trong những tháng tới vẫn còn tích cực vì các nước nhập khẩu có thể tăng mua lại.