PVN có khả năng thực hiện cơ sở tuabin
Rong Viet Securities (VDSC) vừa công bố một báo cáo về triển vọng của ngành công nghiệp điện gió ngoài khơi với một phán đoán tích cực, nhấn mạnh rằng Việt Nam Dầu khí Corporation Corporation (HNX: PVS) đang phải đối mặt với cơ hội tuyệt vời để xâm lấn vào lĩnh vực Cài đặt điện khí.
![]() |
Theo báo cáo tháng 6 năm 2024 của Hội đồng Năng lượng gió toàn cầu (GWEC), khu vực châu Á -Pacific dự kiến sẽ dẫn dắt thế giới trong năng lượng gió ngoài khơi, đạt khoảng 172 GW vào năm 2030, tương đương với 57,6% công suất toàn cầu. So với châu Âu (111 GW – 37,2%) và Bắc Mỹ (15,2 GW), tốc độ tăng trưởng kép trong khu vực này đạt 21,2%/năm, mở ra tiềm năng mạnh mẽ cho các doanh nghiệp trong chuỗi giá trị.
Năng lượng gió ngoài khơi là một ngành công nghiệp có chuỗi giá trị dài, từ các khảo sát địa chất, thiết kế, đấu thầu, chế tạo nền tảng hình trụ, cáp ngầm đến lắp đặt tuabin và vận hành thương mại. Cụ thể, quá trình xây dựng năng lượng gió có nhiều điểm tương đồng với việc xây dựng các công trình dầu khí, đặc biệt là trong giai đoạn sản xuất và lắp đặt – đây là sức mạnh của các đơn vị như PVS và Tập đoàn Công nghiệp Năng lượng Quốc gia (Petrovietnam, PVN).
Theo GWEC, một dự án năng lượng gió ngoài khơi thường mất 6-8 năm để hoàn thành, trong đó thời gian khảo sát gió chiếm 1-2 năm, thiết kế và đấu thầu kéo dài trong 1-2 năm và việc cài đặt xây dựng thường mất 2-4 năm. Sau khi đi vào hoạt động, tuabin có tuổi thọ khoảng 20 năm30 và cần bảo trì thường xuyên cứ sau 10 năm để thay thế các bộ phận như hộp số, lưỡi dao, để đảm bảo an toàn và hiệu suất.
Chi phí đầu tư cho mỗi dự án năng lượng gió ngoài khơi dao động từ 2 đô la 5 tỷ USD, tùy thuộc vào quy mô và điều kiện địa lý. Mức đầu tư này thường cao hơn dự án dầu khí do các yêu cầu về kỹ thuật và công nghệ cao hơn, đặc biệt là trong các loại tuabin, cáp ngầm và các trạm biến áp ngoài khơi – hiện vẫn còn do các nhà sản xuất quốc tế.
![]() |
Tuy nhiên, hầu hết các mặt hàng còn lại như thiết kế, chế tạo, xây dựng cơ sở hạ tầng vẫn tương tự như ngành công nghiệp cơ học dầu khí ngoài khơi – lĩnh vực mà PVN và PVS có hàng thập kỷ kinh nghiệm. Đáng chú ý, tuabin gió có trọng lượng khoảng 8001.200 tấn, trong khi các thân khoan dầu mỏ được xây dựng bởi PVN có thể lên tới 15.0002020.000 tấn. Điều này cho thấy khả năng xây dựng hiện tại của PVN có thể đáp ứng đầy đủ các yêu cầu xây dựng nền tảng và cơ sở hạ tầng của các tuabin gió ngoài khơi.
Những cơ hội tuyệt vời mở ra cho các PV để lấn chiếm năng lượng gió ngoài khơi
Chứng khoán Dragon Viet nhấn mạnh rằng Tập đoàn Cổ phần Dịch vụ Dầu khí Việt Nam đang phải đối mặt với một cơ hội vàng để biến mình thành một doanh nghiệp xây dựng hàng đầu trong ngành công nghiệp năng lượng gió ngoài khơi – một lĩnh vực phát triển mạnh mẽ ở khu vực châu Á -Pacific và đặc biệt là Việt Nam. Mặc dù anh ta chưa bao giờ thực hiện đầy đủ một dự án năng lượng gió ngoài khơi, PVS đã bắt đầu bằng cách tham gia xây dựng các mặt hàng như khán đài và trạm biến áp trong các dự án ở Đài Loan như Formosa, Greater Changhua 2b & 4 hoặc Fengmiao.
Theo VDSC, chiến lược hợp tác liên doanh với các đối tác nước ngoài để tìm hiểu kinh nghiệm thực hiện dự án toàn diện sẽ là bước đệm cho PV để dần dần thành thạo công nghệ, tiến hành độc lập các gói đấu thầu quan trọng trong tương lai. Công ty dự kiến sẽ nhanh chóng tăng lên một nhà thầu điển hình trong khu vực nhờ ba lợi thế chưa thanh toán: (1) sở hữu một cơ sở cảng 200 ha Luu – cảng sản xuất lớn nhất trong khu vực, (2) kinh nghiệm có kinh nghiệm về xây dựng cơ khí và có nhiều điểm tương đồng trong tổ chức kỹ thuật và xây dựng.
Đặc biệt, vào tháng 8 năm 2024, PVS đã giành được gói khảo sát gió, thủy văn và địa chất cho một dự án năng lượng gió lớn với công suất ước tính là 2,3 GW, chuyên cung cấp điện tái tạo cho Singapore thông qua hệ thống cáp ngầm cao. Giá trị của gói PVS xây dựng M & C trong giai đoạn 2025 Hàng2028 đã được VDSC đưa ra tới 1,2 tỷ USD. Dự án dự kiến sẽ hoạt động vào năm 2030, góp phần vào mục tiêu nhập 4 GW điện sạch của Singapore cho đến năm 2035. Với kỳ vọng dòng tiền lớn sẽ được đổ từ năm 2030, đây sẽ là một động lực tăng trưởng bền vững cho PV trong dài hạn.
Việt Nam hiện là một trong 5 quốc gia hàng đầu phát triển năng lượng gió ngoài khơi ở châu Á – Thái Bình Dương. Vào đầu năm 2025, năng lượng gió ngoài khơi của Việt Nam chiếm khoảng 11,7% tổng công suất khu vực; Nếu loại trừ Trung Quốc, tỷ lệ này tăng lên đến 23,5%. Với các dự án điển hình như Thang Long Wind (3,4 GW) năng lượng doanh nghiệp và La Gan (3,5 GW) được đầu tư bởi các đối tác cơ sở hạ tầng Copenhagen, tiềm năng tăng trưởng trong ngành này là rất lớn.
Theo định hướng của quy hoạch điện VIII, Việt Nam nhằm mục đích đạt được 6 GW năng lượng gió ngoài khơi vào năm 2030 và 15 GW vào năm 2035.
Trong bối cảnh của phong trào năng lượng tái tạo ngày càng rõ ràng, VDSC nói rằng PVS đang có cơ hội vàng để trở thành một nhà thầu xây dựng quan trọng của Việt Nam trong ngành công nghiệp năng lượng gió ngoài khơi, đồng thời khẳng định vị trí của nó là một đơn vị điển hình của toàn bộ khu vực trong làn sóng năng lượng xanh toàn cầu.